@   CẦN TUYỂN NHÂN VIÊN SPA CÓ TAY NGHỀ , NUÔI CƠM, LƯƠNG CAO.  @   CẦN TUYỂN NHÂN VIÊN SPA KHÔNG YÊU CẦU KINH NGHIỆM ĐỂ ĐÀO TẠO THÊM.   @   NHẬN HỌC VIÊN, NHÂN VIÊN LÀM THEO BUỔI.   @   NHẬN ĐÀO TẠO HỌC VIÊN SPA MỚI, HỌC VIÊN LÀM TRẢ CÔNG.   @   CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ THẨM MỸ SPA CÔNG NGHỆ CAO.   

Gà đá bổn dữ Bến Tre: Đạo kê diễn nghĩa, coi tướng, vảy gà III

Trị mụn, nám, tàn nhang, nút ruồi.
 Tắm trắng, massage mặt.
 Phun: môi, mi, mày, nhủ hoa.
 Trang điểm, nối mi, uốn mi.
 Chạy c, lăn kim, thải độc tố da.
 Bán mỹ phẩm ngoại nhập. Đến là đẹp.




1. Bể Biên 
Hàng Quách cũng có một vảy bể ra thì gọi là "Bể Biên Khai Hậu" là cậu gà nòi. Ấy là điềm lành. Bể biên đây không phải là bể hàng biên mà là một vảy ở hàng Quách bể ra. Bể hay khai cũng đồng nghĩa. Câu "Bể biên khai hậu" hơi tối nghĩa và dễ hiểu lầm. Phải chi sách vở gọi là "Bể Quách Khai Hậu" thì ít có ai hiểu lầm. 


2. Quấn Cán 
Kê Kinh có chép: 
"Rằng mà khai hậu nhỏ to
Mà có quấn cán chẳng lo chút nào." 



Hàng tiền có thêm một vảy Vấn Cán, (còn gọi là Quấn Cán). Vảy vấn cán là một vảy dài vấn ngang quản từ Thành qua Quách. (Tựa như vảy Án Thiên hoặc Phủ Ðịa nhưng địa điểm là từ hàng vảy thứ tư trở xuống và trên cựa.)





Đa Hậu 
Hàng hậu xuống tới cựa nhưng bị chia ra thành hai hoặc ba hàng vảy thì thất cách nên còn gọi là thất hậu







121. Ai ơi áp khẩu chỉ ra,

122. Tài hay lụn bại thêm là phí công. 

Có hai tài liệu về vảy Áp Khẩu. Theo nhiều tác giả danh tiếng (Mộng lang xin tạm giấu tên) thì vảy Áp Khẩu là ở ngón Thới có một hàng vảy bình thường đột nhiên có một vảy chia đôi thành hai vảy. Nhưng tài liệu hình vẽ vảy áp khẩu như vậy không đúng như Kê Kinh.





Tài liệu thứ hai về vảy Áp Khẩu của tác giả Vũ Hồng Anh thì vảy Áp Khẩu là đường chỉ chẻ ra và sổ dài từ gối xuống chậu và đổ ra rãnh giữa ngón Nội và ngón Chúa (điểm  hoặc sổ xuống rãnh giữa ngón Chúa và ngón Ngoại (điểm A) theo như câu "hoặc ngoại hoặc chính trung tâm". Hình này Mộng lang vẽ phỏng theo hình của tác giả Vũ Hồng Anh. 


Kê Kinh chép: 
Áp khẩu đường chém chẻ hai,
Đóng trên các vảy xổ dài xuống ngay.
Ấy vảy nó chỉ ra rày.
Vảy ấy là nó như bày cây kim.
Hoặc ngoại hoặc chính trung tâm,
Nuôi thì tốn lúa lại thêm thua tiền.
 



Theo Kinh thì hình vẽ vảy Áp khẩu của tác giả Vũ Hồng Anh có phần chính xác hơn. Mộng lang xét thấy chính xác hơn chứ bản thân mình chưa từng thấy qua nên không dám kết luận. Theo như trong kinh thì vảy này là một đường chỉ chém băng qua các vảy như một cây kim. Có lẽ nó phải là một đường chỉ thẳng băng thì đúng như trong kinh hơn. 
Gà có vảy Áp Khẩu là gà xấu, không thể đem ra trường được.





123. Đôi chân thủy được như sông,

124. Vảy khô như chết móng rồng phải kiêng. 

Vảy chân của gà chọi mỏng và trong như mặt nước sông thì ra đòn rất nhanh. Gà có vảy trong và mỏng thì dùng cho gà cựa thì tốt. Đối với gà đòn thì nên chọn vảy khô và lởm chởm như vảy gà chết vì gà có vảy khô tuy ra đòn chậm nhưng đá đau thấu xương. 
Kê Kinh có câu: 
Bất câu xanh xám trắng ngà,
Ðường đất cho nhỏ vảy mà cho trong.......
Khai mương vảy dóng khô vi
Chơn như gà chết võ thuần chẳng sai.
 

Vảy trong và mỏng thì đường đất phải cho nhỏ, vảy khô thì Thành và Quách phải nổi cao (còn gọi là hàm rập hoặc khai mương) thì mới tốt. 
Cũng theo Kê Kinh thì: 
...Vảy đóng cho mỏng chân dày phân ba
Ngón dài nhỏ thắt tằm nga.
Đường đất như chỉ đóng xà cựa kim.
......Cho hay là thể thuần văn
Địch cùng võ thể mười phần toàn công.
 

Và: 
.....Vảy thời to kịch hình dung võ toàn,
Đá thời động địa kinh thiên,
Sánh cùng văn thể thủ thành đặng đâu.
 

Xem thế thì gà chọi có vảy khô như vảy gà chết thì thuộc dòng Võ. Gà có vảy mỏng và trong như mặt nước sông thì thuộc dòng Văn. Văn quan ăn võ quan. Tuy nhiên, tất cả còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác 
Khi một con thần kê thác đi thì các Sư Kê thường giữ lại cặp chân gà để nghiên cứu. Chân gà chết lâu ngày thì thịt teo và vảy khô lởm chởm. Đoạn này mô tả vảy khô như vảy gà chết là vậy.





Mình không có tài liệu về móng rồng mà chỉ có tài liệu về vảy rồng thôi. 
Vảy gà xếp lên nhau theo hình thức "Nhân Tự" 人 là gà quý. 
Theo Hán văn thì: 
Nhân = người 
Tự = chữ. 
Gà có vảy nhân tự xếp lên nhau trông giống như Chưởng". 




125. "Tam Tài" đòn quý đòn thiêng,

126. Nó hay quăng đá bất kiêng chẳng nề. 

Vảy Tam Tài đã được mô tả trong những trang trước. Ngoài ra, khi vảy phủ địa mà có ba cái thì nó đựơc gọi là Tam Tài Phủ Địa, 3 vảy Huyền Châm thì gọi là Tam Tài Huyền Châm v.v. 
Gà đá quăng là nạp đòn mà không cần phải núm đầu hay lông đối thủ.


127. Chân nào tứ trụ đa thê,

128. Đòn hay hiểm hóc vỗ về nước khuya, 

(Theo ít nhất là 2 danh sư thì vảy Tứ Trụ là 4 vảy dặm ngang cựa mà chia đều nhau, không vảy nào lớn nhỏ. Tài liệu vảy Tứ Trụ của các danh sư kém phần chính xác, hình vẽ chưa hợp lý, bổn Tự cần phái thuộc hạ đi nghiên cứu thêm.


129. "Lạc ma hàm cốc" cũng khuya,
130. Còn như ám chỉ ra tia độc đòn. 

Vảy Lạc Ma Hàm Cốc là một vảy có hình tròn thuộc hàng Quách nằm dưới cựa. Theo như Ðạo Kê thì gà có vảy này rất bền nước khuya. 
Gà có vảy này ưa bay cao, đá mép, đá hầu và đá tạt rất giỏi. 
Ám Chỉ tức là Nguyệt Ám Chỉ. Ðường chỉ này nhỏ xíu quấn ngang sát gối từ Quách qua Thành hình ánh trăng lưỡi liềm. Gà có chỉ này ra đòn độc địa na ná như phép Nhất Dương Chỉ của nhà họ Ðoàn . Chỉ này còn đựơc gọi là Chỉ Nguyệt Anh. Theo một vài danh sư thì gà có chỉ này rất may độ.





131. Xuyên thành hổ trảo nhiều con,
132. chém như dao cắt địch bon chạy dài. 

Xuyên Thành là hai vảy dưới cựa sát nhau của hàng Thành có đường nứt. Ðịa điểm của vày này là khoảng dưới cựa. Gà có Xuyên Thành tung đòn nặng nề đủ làm gãy cổ đối thủ. 
Nếu vảy Xuyên Thành mà nằm ở hàng Quách thì nó có tên là Phả Công, (có nơi gọi là Tả Công). Gà có Phả Công chuyên đá tạt rất hung dữ. 

Theo danh sư Phan Kim Hồng Phúc thì vảy hổ trảo là chân gà có vảy lốm đốm xanh, đen, hoặc đỏ. Gà có vảy này đá chắc đòn. Mộng lang không có tài liệu hình vẽ của vảy này.





133. Cẳng nào vấn án hoành khai,

134. Khôn lanh như chớp chẳng sai nhiều đường. 

Có ít nhất là 3 sự dị biệt giữa các danh sư về vảy Vấn Án Hành Khai. 
Theo danh sư Huỳnh Ngọc Trảng thì vảy Vấn Án Hành Khai là 1 vảy vấn có 1 đường nứt ở giữa, vảy này nằm tại cựa hay từ cựa tới chậu thì tốt hơn nằm ở quản gà. 
Xem ra thì vảy này gần giống vảy Lộc Ðiền Tự nhưng khác nhau ở đường đất chia đôi. Lộc Ðiền Tự có đường đất chia đôi. Vấn Án Hành Khai cũng có đường chia đôi nhưng chỉ là đường nứt.





135. "Hổ đầu" "hắc bạch" phải thương, 
Hổ đầu có thể là Hổ Ðầu Nhâm - ngón chúa có nhiều vết đốm khoang nhỏ li ti. Gà có Hổ Đầu Nhâm ra đòn cực mạnh từ nước hai đổ đi. 





Ngoài ra, ngón chúa có một dặm nhỏ ở vảy đầu tiên sát móng thì gọi là Hổ Đầu. Cũng tại điểm này mà có vảy Nhân Tự thì gọi là Nhân Tự Ðầu Hổ. Tất cả đều là vảy của gà dữ.





Hắc tức là Hắc Hổ Thới. Các ngón của hai chân đều có móng trắng duy ngón Thới có móng đen cả hai chân thì gọi là Hắc Hổ Thới. Gà này giao tống mạnh.





 

Bạch tức Bạch Ðầu Chỉ. Tất cả các móng đều đen duy ngón chúa của cả hai chân có móng trắng. Gà có Bạch Đầu Chỉ có biệt tài song phi và đá tạt.





Vảy này gởi riêng cho Nhị Ca. 
Theo danh sư Huỳnh Ngọc Trảng thì Độ Tam Tằng là độ có hai hàng kẽm kèm theo hộ vệ hai bên. Một hàng kẽm ở bên hàng Quách và một hàng kẽm ở bên hàng Hậu. 
Nếu nhìn từ sau cựa của gà và đi theo chiều kim đồng hồ vòng ra phía trước thành một vòng tròn thì chúng ta sẽ có những hàng vảy như sau: 
Độ/Kẽm/Quách/Thành/Biên/Hậu/Kẽm/Độ. 
Và như thế thì chúng ta trở lại vị trí ban đầu là Độ. 
Theo danh sư Huỳnh Ngọc Trảng thì gà có độ tam tằng rất tốt.
Sự khác biệt gữa hai vảy Vấn Án Hành Khai và Ðâu Ðầu là "đường nứt ở giữa". 
Khi gà còn nhỏ thì vảy Vấn Án Hành Khai chỉ là một vảy vấn (quấn). Nhưng khi trưởng thành hoặc về già thì có đường nứt chia đôi vảy vấn nên gọi là Vấn Án Hành Khai. Còn vảy Ðâu Ðầu thì ở giữa chỉ là đường đất bình thường. (không phải đường nứt.) 
Có khá nhiều dị biệt giữa các danh sư về hình thức của vảy này nhưng Mộng lang chỉ chọn làm tài liệu những vảy nào có hình thức đúng như tên gọi hoặc đúng như Kê Kinh mô tả mà thôi. 
Tên gọi của vảy Vấn Án Hành Khai theo bổn sư hiểu thì là một vảy quấn (Vấn) bị nứt (Khai) một đường (Hành), trấn ngự phía trước (Án).

Tiếp tục Ðạo Kê thì: 

136. Như thương "ẩn địa" "giáp cương" là thường. 
Vảy Ẩn Ðịa nằm ẩn ở dưới vảy Phủ Ðịa. Vảy Phủ Ðịa là một vảy vấn nằm dưới tất cả các vảy của quản gà. Khi khẽ lật mí vảy Phủ Ðịa lên thì sẽ thấy vảy Ẩn Ðịa nếu có. 
Lưu ý: Ðừng lộn vảy Ẩn Ðịa với vảy Yểm Ðịa. 

Mộng Lang không có tài liệu của "giáp cương".





 

137. Nhật thần hổ khẩu khai vương,

138. Chỉ tài võ nghệ cao cường phải ra. 

Theo Kê Kinh thì vảy Nhật Thần là vảy có thể chống đỡ được đao thương. 
Nhật thần vảy đóng ở đâu,
Nó đóng ngang cựa để hầu phòng thương........ 

Cũng theo Kê Kinh thì hình thức của vảy Nhật Thần là một liên giáp có đường nứt ở giữa như câu: 
Liên giáp hai vảy dính liền
Liên giáp nứt giữa, nhựt thần rất hay.
 

Có sách cho rằng vảy Nhật Thần có hình tròn. Nhưng Kê Kinh chỉ nói rằng vảy Nhật Thần là một Liên Giáp đóng tại hàng Quách do hai vảy dính liền nhau (giống như Hổ Khẩu) nhưng có thêm đường nứt ở giữa mà thôi. 
Bất kể vảy Nhật Thần có hình tròn hay ngũ giác nhưng điểm quan trọng là phải có đường nứt ở giữa và đóng ngang cựa. Nếu không có đường nứt ở giữa hoặc đóng nơi khác thì không phải là Nhật Thần. 
Chiến kê có vảy Nhật Thần ra đòn long trời lở đất. Ðường nứt ở giữa của vảy tựa như một lời cảnh cáo cho những địch thủ chán sống.





137. Nhật thần hổ khẩu khai vương, 
Vảy Nhật Thần và Hổ Khẩu đều là Liên Giáp Nội đóng tại cựa. Liên Giáp Nội là hai vảy ở hàng Quách dính liền nhau không có đường đất ngăn đôi. 
Vảy Hổ Khẩu không có đường nứt chia đôi.





137. Nhật thần hổ khẩu khai vương, 
Vảy Khai Vương là 4 vảy vấn đóng ở giữa chậu và có một đường khai (nứt) chạy băng qua vảy thứ hai và ba. Ðường nứt tạo ra chữ Vương 王 
Kê Kinh viết: 
Khai vương giữa chậu hai bên
Chẳng sớm thì muộn không quên đòn tài.
 

Vảy Khai Vương phải đóng dưới cựa và càng sát chậu càng tốt. Vảy Khai Vương mà đóng trên cựa thì thất cách. 
Có sách mô tả vảy Khai Vương đựơc tạo ra bởi hai vảy vấn chứ không phải 4 vảy vấn. Mộng lang chọn dùng loại 4 vảy vấn vì bản thân đã từng đựơc xem qua, loại 2 vảy vấn bị trùng tên với vảy Gạc Thập. 
Có một số Sư Kê không thích vảy Khai Vương vì tuy rằng vảy này là vảy tài nhưng gà lại ít gặp may.



139. Đao kia vảy đóng hoa cà,
Ấy là đao độc chết thà chẳng khinh.


141. Gặp tên song phủ giáp kinh,
Nhất thời đâm chết nhì thời bất dung. 

Trong câu 139 nói đến gà có 6 vảy đóng ngay tại cựa như hình Hoa cà. Hoa cà có 6 cánh và ở giữa một vảy xem như là đài hoa. Lọai gà có vảy Hoa cà đâm rất độc hại, nếu đâm là gà đối phương không mù thì khó mà thóat chết. Thường là gà ba hàng vảy chạy xuống dễ tạo thành hình Hoa cà nhưng không đúng lắm. Nếu gà có 2 hàng trơn mà ở ngay cựa chẽ thảnh 3 hàng vảy thì mới tạo ra vảy Hoa cà. 






Trong câu 141 nói đến lọai gà có vảy “Song Phủ” như hình hai cái búa giao nhau. Trong kê Kinh cũng có nhắc đến lọai vảy tương tự như “Song Phủ” là "Nguyệt Phủ", các hành giả chư tôn hay lầm lẫn giữa hai loại vảy này: 
Nguyệt phủ là vảy buá trăng,
Thân nội cái vảy dường chưng buá hình.
Hai hàng vảy đóng rành rành,
Hai bên đâu lại hiệu danh giao đầu.
 

Trong Hán Văn, chữ “phủ” có nghĩa là cái búa có dạng như sau 斧 do đó mỗi chân từ hàng quách (thân nội tính ra) có vảy chạy chéo lên như hình lưỡi búa. Trong sách “Giáp Kinh” của Nhất Phẩm Đường cũng có nói đến lọai vảy kinh thiên động địa này. Gà có vảy “Song Phủ” hay "Nguyệt Phủ" mỗi lần ra trận là có cảnh "máu chảy đầu rơi", phải lấy mạng gà đối phương. 
{Hình Vẽ của ĐCCH về Song Phủ Đao} 
Nếu đọc lại câu trong Kinh Kê thì thấy chữ "Nguyệt Phủ" là hai vảy có hình như lưỡi búa nhưng đóng hoành ngang sang hàng Thành. Trong Hán tự chữ Nguyệt là 月, do đó phải là vảy vấn liền từ hàng quách sang hàng thành ( Hai hàng vảy đóng rành rành). Nếu chỉ có 1 vảy vấn đóng ngay cựa được gọi là vảy "Nguyệt tà" hay "Xuyên Đao". Nếu hai vảy vấn đóng ngay cựa có hình dạng hơi loe rộng ra như hình đầu búa rìu (bên hàng thành) thì đó là vảy "Nguyệt Phủ". 
Nếu hai chân đều đóng vảy "Nguyệt Phủ" như trong câu "Hai bên đâu lại hiệu danh giao đầu" thì thật là vảy độc hại. Gà có vảy "Nguyệt Phủ" hay "Song Phủ" không những có tài đâm mà còn dùng cựa để chém như lưỡi búa !!! 
{Hình vẽ của ĐCCH về Nguyệt Phủ Đao - giống như song phủ đao nhưng là hai vảy vấn như hình búa đóng ngay cựa }


143. Xem đao phải biết hãi hùng,
Cựa kim đóng thấp vòng cung vẹn toàn.
Phòng đao "giáp thới" truy hoan,
146. Ửng tâm nhật nguyệt mưu toan hổ rừng. 

Câu 143 và 144: Gà mà có cựa hình dạng nhỏ và nhọn lễu như cây kim đóng thấp phía sau chân. Hơn thế nữa là có hình hơi cong như hình cây cung là giòng gà giỏi về đâm cựa. Gà cựa nhọn hình cung thì có tài lấy mắt gà đối phương nhấp nháy.

Câu 145 và 146: Gà có vảy (nứt như chữ thập) mang hình chữ Giáp 甲 đóng ở đầu ngón thới cũng là một lọai gà sở trường về dùng cựa như đao để đâm gà đối phương. Trong phần này Đạo Kê đang bàn về “đao” nên nói đến “Nhật Nguyệt” là một bên cựa màu trắng, một bên cựa màu đen. Lọai gà có cựa Nhật Nguyệt thường được xem như là lọai Linh kê ra đòn dữ như cọp. Trong Kê Kinh có bổ túc thêm như sau : 

“Ðôi chơn nhựt nguyệt anh linh chẳng vừa.” 


Tuy nhiên Kê Kinh lại nói đến đôi chân chứ không riêng gì cựa, vì thế nhiều sư kê đã diễn rộng ra cựa Nhật Nguyệt không chỉ gói gọn trong màu của cựa mà còn nói đến màu sắc của cả cặp chân nữa. Thí dụ như một chân trắng và một chân đen (rất híêm thấy), hay chân trắng cựa đen, hay chân đen cựa trắng đều được xếp vào lọai gà “Nhật Nguyệt”. 

Một điểm khác tiện đây xin được bàn thêm cùng các tôn gỉa, các bậc sư kê và nghệ nhân chơi đá gà là hầu hết đều dùng chữ “anh linh” để diễn đạt là gà Linh Kê. Theo thiển ý của BaLoi thì chữ “Linh” được hiểu theo Việt Ngữ là “linh thiêng” và huyền bí ở đây không hẳn đúng lắm. Tuy nhiên hai chữ “anh linh” hiểu theo nghĩa tiếng Hán Việt thì đó chỉ là một lọai tài giỏi, nhanh nhẹn hơn bậc thường tình thôi. Cho nên gà “Nhật Nguyệt” ra trường đụng phải gà hay hơn cũng bị thảm tử như thường. Các tôn giả không nên hiểu theo hai chữ “Linh Kê” là gà linh nên không thể thua và không thể bị đá bại.

147. Thới mà cao thấp không chừng,
Án bên cánh tả đoản đừng phải phân.
Phủ hoành song giáp là trân,


150. Đòn luôn khép chặt đôi chân phải tường. 

Câu 147 và 148: Gà mà có ngón thới, là ngón nằm phía sau gần cựa mà một bên cao, một bên thấp không đều nhau, các chư vị nên cẩn trọng nếu đụng phải. Nếu gà mà có ngón thới bên chân trái ngắn hơn chân phải thì đó là con gà dùng móng để ra chiêu “Hổ Trảo Cầm Nã Thủ” để ra đòn độc hạ thủ gà đối phương khi lâm trận. 

Câu 149 và 150: “Phủ Hòanh Song Giáp” tương tự như vảy "Nguyệt Phủ" mô tả trong Kê Kinh đã diễn giải ở câu 141 - Đạo Kê. “Phủ hòanh” là vảy có hình cái búa đóng ngang (hòanh) từ hàng quách kéo qua hàng thành. Vảy này phải được đóng cả hai chân thì mới gọi là vảy của quý kê. 
Gà có lọai vảy "Phủ Hoành Song Giáp" có hình dạng như chiếc búa này ra đòn rất khôn lanh, mưu lược và khống chế gà đối phương, gài thế đưa vào tử lộ để dứt điểm trận đấu.


151. "Nhím kê" nó thật cao cường,
"Mỵ kê" mà có ngũ thương tử hình,
Dung nhan ấy thật là tinh,


154. Ngưỡng qua thời biết anh linh cả đời. 

Câu 151 và 152: Những con gà có lông mã chỉa ra tua tủa cứng như lông nhím, còn được gọi là gà “lông thép”. Đây là một trong những lọai gà có đặc điểm dị kỳ như “qúai kê” ẩn tướng. Lọai gà lông nhím này có tài nghệ rất cao cường nếu ra trường gà mà các hành gỉa đụng phải lọai gà này phải đề phòng. 
“Mỵ Kê” đây là “Tử Mỵ Kê” mà có “ngũ thương” (伍 鎗) tức là cái kiềng hay cái vạc có 3 chân xếp bằng nhau. Ở đây ý nói đến thế ngủ của “Tử Mỵ Kê” khi nằm ngủ đầu xỏai ra phía trước và mỏ chấm xuống đất làm thành 1 điểm, hai điểm phía sau là hai đầu cánh xòe ra chống xuống đất tạo thành 3 điểm chống đỡ trong lúc ngủ trông vững chãi như cái vạc 3 chân. 
Câu 153 và 154: Hai câu này chỉ diễn giải thêm về Tử Mỵ Kê. Lọai gà Tử Mỵ Kê dấu tướng rất khó lòng khám phá ra. Nó chỉ lộ hình tướng trong khi ngủ mê mệt mà thôi, cho nên chư vị chơi gà phải tinh ý cho lắm mới khám ra con gà mình có phải là “Tử Mỵ Kê” hay không ? Nếu đúng là Tử Mỵ Kê thì thật là gà quý hiếm và tài giỏi, cả đời chưa dễ dầu gì gặp được một.


155. "Án thiên" gối phủ an nơi,
Gà hay kiếm đặng mà chơi mà chiều.
"Ám long" vảy ấy mĩ miều,


158. Một là "quái kiệt" hai là "linh kê". 

Gà nếu có vảy vấn đầu tiên đóng ngang ngay gối thì đó chính là "Án Thiên". Dựa theo luật bất thành văn của Đạo Kê là nếu gà có 3 vảy liền nhau gọi là "Tam Tài". Do đó vảy "Án Thiên" đóng tại gối theo thứ tự từ trên xuống là Đệ Nhất Án Thiên, Đệ Nhị Án Thiên và Đệ Tam Án Thiên thì là gà có quý tướng. Tuy nhiên nếu không có Đệ Nhất mà chỉ có Đệ Nhị hay Đệ Tam Án Thiên thì không phải là gà hay, chỉ trung bình thôi. Một số dịch gỉa diễn nghĩa gà có "Án Thiên" là gà của Trời e không đúng lắm. Quản gà được chia 2 phần Thượng và Hạ, phần gần sát gối gọi là Thiên (trời cao) và phần sát chậu nơi vảy bắt đầu phân nhánh ra các ngón gọi là Địa (đất thấp). Chữ "Án Thiên" có nghĩa là vảy đóng nơi cao nhất trên quản gà. 

{Hình vẽ của ĐCCH} 

Con gà có vảy "Án Thiên" là loại gà có khí phách quân tử anh hùng ra trận không dễ gì thua. Những con gà có vảy kém hơn thường "soi" vảy "Án Thiên" để biết mặt gà "chính danh quân tử" và biết tài cao thấp mà chịu thua trước. BaLoi có kinh nghiệm qua và từng chứng kiến con gà thường "soi vảy" Án Thiên của quý kê và khiếp đảm bỏ chạy ở hiệp 3 trong khi nó vẫn còn tỉnh táo và khỏe không có dấu hiệu gì là thua. 
Trong các loại vảy có liên hệ đến rồng trong Đạo Kê có nhắc đến 3 loại. Đó là Giáp Long, Giao Long và Ám Long. 
Gà có Giáp Long là có vảy tròn cạnh và xếp hình như chữ Nhân (人) được xếp lớp như vảy rồng xếp từ đầu đến cuối ngón thới như đã được thầy Mộng Lang giải thích ở câu 2. 
"Giao Long Chi Tự' là loại gà có vảy nhữ chữ "Chi" (之) do hai hàng thành và quách giao nhau từ trên gối xuống chậu đa xéo qua xéo lại như chữ chi (Chi tự). 
Riêng "Ám Long" là gà có vảy tròn như vảy rồng nhưng không lộ hình tướng (Ám là ngầm, ẩn đi) mà mọc ở những nơi khó thấy như dưới đế chậu hay những nơi khác trong mình gà. Trong Kê Kinh có câu:

Ẩn tinh to nhỏ không cùng,
Nó ẩn dưới chậu danh đồng ẩn long


Theo BaLoi thì chữ "Án" ở đây có nghĩa là "chắn ngang" (theo định nghĩa của Tự điển Việt Nam). Hai chữ Thiên và Địa là thuật dùng từ của cổ nhân để phân biệt nơi cao thấp trong quản gà một cách thi vị hóa mà thôi. Do đó Án Thiên được hiểu là vảy đóng và chắn ngang ở vảy cao nhất trên quản gà. 

Còn nếu dịch theo Hán Việt thì chữ "Án" có nghĩa là : Đè xuống - vảy Án Thiên ở trên cao nhất đè các vảy khác bên dưới (quản gà).



159. Khai tiền vảy đóng một bề,
Vàng son đã hết gà chê gà thường.
Gà thường gối vảy ngũ tu,


162. Hoặc chân rọc chậu sinh ngu đui mù. 


Câu 159 và 160 : Hai câu này nói đến những vảy xấu của gà. Gà nếu có vảy khai ở mặt tiền, bất kể ở hàng thành hay hàng quách đều là bị chê không còn gì để “vớt vát”. Duy chỉ có một điểm son cuối cùng là nếu gà bị khai tiền và khai luôn cả hậu thì 2 điểm xấu trấn áp nhau thành ra điểm tốt. Khai tiền ở bên hàng quách (bên hàng gần cựa) mà có khai hậu thì thật là quý tướng kê, còn được gọi là “cậu gà nòi” ! 


Câu 161 và 162 : Gà có vảy “ngũ tu” là vảy nhỏ xếp thành hàng ngang từ gối trở xuống, còn được gọi là “gà nát gối”. Câu 162 nói về lọai gà có đường nứt hay đường đất của vảy như bị cắt thắng (rọc) 1 đường chạy từ vảy trổ xuống kẽ móng chúa (giữa) và móng ngọai. Lọai gà này nuôi chỉ “ăn hại thóc lúa” và nếu đem ra trường chỉ là “bị thịt” cho gà người ta đá chứ không có tài cán gì hết ! Rọc chậu hơi giống "Áp Khẩu" chỉ khác là Áp Khẩu thì chạy từ gối gà xuống kẽ của 2 ngón chân. 
Gà có những lọai vảy này thương được sư kê lọai bỏ vào đợt đầu tuyển lựa khi gà được 2 hay 3 tháng.










 
 







Còn Nữa Trang 1. Trang 2. Trang 3.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Coi nhiều